Chất thải, xác
súc vật, phân, rác, máu, mủ, chất nôn
ói…là thức ăn ưa thích của ruồi. Nắm được đặc tính và môi
trường sống của chúng có thể giúp con người có những biện pháp diệt ruồi hiệu
quả hơn.
Ruồi có vòi cấu tạo theo kiểu liếm hút, khi
không ăn uống gì vòi được gập vào ổ miệng. Ngực chúng có
3 đôi chân, 1 đôi cánh mỏng với
5 gân dọc. Chân chúng bao gồm nhiều đốt, có lông,
đốt cuối bàn chân có đệm móng và tuyến tiết dịch. Bụng ruồi cái
có ống dẫn trứng thường kéo dài ra khi đẻ và co lại sau đẻ. Trong
điều kiện ấm áp, một tháng có khoảng hai
đến ba thế hệ ruồi được sinh ra. Vì vậy quần thể ruồi phát triển rất nhanh chỉ
sau một thời gian ngắn.
Ruồi có vòng
đời biến thái qua 4 giai đoạn: trứng,
ấu trùng (giòi), nhộng và ruồi trưởng
thành. Chỉ vài giờ sau nở ruồi nhanh chóng cứng
cáp và có thể giao phối, đẻ trứng sau vài ngày. Ruồi thường đẻ trứng vào
hố rác, phân, xác súc vật…, mỗi lần đẻ khoảng 100 -
150 trứng và có khả năng đẻ được từ 4 - 8 lần trong đời.
Thời gian hoàn thành vòng đời của ruồi phụ thuộc vào
nhiệt độ, thời tiết và thức ăn của
môi trường.
Ruồi mang nhiều mầm bệnh đến con người
Với 3 cặp chân đốt có nhiều lông ở
đệm móng và miệng có vòi liếm hút, ruồi là tác nhân mang và truyền hơn
100 loại mầm bệnh cho người và vật
nuôi như dịch tả, lao, thương hàn, kiết lỵ, dấu
son, nhiệt thán, liên cầu khuẩn, tụ cầu
khuẩn, đậu mùa, mắt hột, viêm gan, bại liệt,…
Sau khi bám đậu lên
phân, chất thải, vết thương hở, xác chết chứa
mầm bệnh, chân ruồi có thể mang tới hàng triệu vi
khuẩn. Do đặc tính sinh lý, sinh thái, khả năng vận chuyển
mầm bệnh của ruồi, nó đã trở thành một trong các nguyên
nhân quan trọng gây bùng phát bệnh, đặc biệt là các bệnh đường tiêu hóa
như dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm. Ngoài truyền nhiều dịch bệnh nguy hiểm ruồi
còn làm vấy bẩn và ô nhiễm nguồi thức ăn, nước
uống, quấy nhiễu cuộc sống của con người.
Chúng ta cần tìm hiểu và nắm được
những đặc tính cũng như các tác hại mà loài côn trùng này có thể mang đến cho
con người để từ đó có những biện pháp diệt trừ phù hợp và hiệu quả.